ĐI LẤY MẬT
(Trích Đất
rừng phương Nam, Đoàn Giỏi)
Buổi sáng, đất rừng
thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cái lành lạnh của
hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ binh
mình. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm(1)
rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao qua một lớp thuỷ
tinh.
Tía nuôi tôi đi
trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi [...], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã
trát chai, tay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng
rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở đầu lưỡi dao dài có đến
sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng
Cò đội cái thúng to tướng, trong thúng đựng một vò nước, mấy gói cơm nắm và cái
áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thúng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã
chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà má nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn
của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo
trong các bụi cây.
Lần đầu tiên tôi theo tía nuôi tôi và thằng Cò đi “ăn ong” đây! Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của con ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên từ những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phái khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.
Trong kho tàng
kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà
tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng
cách gác kèo nhu má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.
- Thôi, dừng lại
nghỉ một lát. Bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵng đi! - Tía nuôi tôi ra lệnh
cho chúng tôi như vậy.
Quả là tôi đã mệt
thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có
quay lại nhìn tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuồng đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư.
Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt
ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!
Tía nuôi tôi ngồi
tựa lưng vào một gốc cây ngái, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành
bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cò bưng vò nước ra, ngửa cổ kề miệng
vào vò uống nước ùng ực. Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi:
- Đố mày biết con
ong mật là con nào?
Hỏi xong, nó đưa
tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng
cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc này cũng có thể khiến người ta giật mình.
Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm,
vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?
Cao quá đầu tôi một
với tay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là ruồi xanh đang bay đứng. Óng
ánh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những
cánh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một
cành ngải khô trên đầu tía nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.
- Chịu thua mày
đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.
Thằng Cò nghe tôi
chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:
- Bây giờ mày cứ
nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cao kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ
trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ.
Đã lâu lắm mà sao
tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thi tía nuôi tôi đã đến cầm tay tôi
trỏ lên:
- Đó, con thấy nó
chưa?
- Thấy rồi!
Tôi kêu khe khẽ. Ờ,
phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của
bình mình này. Một con... hai con... ba con... Rồi một đàn mười mấy con bay nối
nhau như một xâu chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một cái chấm
nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một
đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo... eo... eo... eo... Tiếng
kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.
Chúng tôi giở những
nắm com vắt ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi
rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất.
Một làn hơi đất nhè nhẹ toả lên, phũ mờ những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần
theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi.
Chim hót líu lo. Nắng
bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp
rừng. Mấy con kì nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cày mục, sắc da lưng
luôn luôn biến đổi từ xanh hoá vàng, từ vàng hoá đỏ, từ đỏ hoá tím xanh,... Con
Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy
hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền
quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ
cây. Con đeo trên tấm lá ngái thì biến ra màu xanh lá ngái.
Chúng tôi tiếp tục
đi tới một cái trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy
chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh mỏ
đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng
chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay vù vù kêu liu líu lượn vòng
trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi.
- Chim đẹp quá, Cò
ơi! - Tôi tặc lưỡi, kêu lên.
- Thứ chim cỏ này
mà đẹp gì!
- Ớ đây chim nhiều
quá. [...]
- Thứ đồ bỏ, không
ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì mày sẽ biết...
Nó nói một cách lơ
là như vậy rồi cứ cắm cúi đội cái thúng đi. Tôi muốn hỏi về cái “sân chim”,
nhưng vì tự ái và nghĩ nếu mình gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt,
bèn im im đi tới.
[...] Tôi chẳng hỏi
gi thêm, cứ lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của
tôi, cứ nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khẽ. Tôi
nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kèo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi!
Sự mừng rỡ làm tôi
quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi:
- Sao biết nó về
cây này mà gác kèo?
- Thằng mau quên
hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho mày nghe đó? - Nó chành môi ra cười lù
lù, trông cái miệng thấy ghét quá.
Tôi ngước nhìn tổ
ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần dần nhớ lại lời má
nuôi tôi kể:
- ... Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu
cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh! Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh
nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu! Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải
thạo nghề
ấy con ạ! - Má
nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây
bình bát dại mọc quanh hè, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: - Gió thổi có hướng,
cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết
nhiều hoa, mình mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay
của ong mật. Đó là những chỗ “ấm”, cây dày, không bị ngọn gió thốc thẳng vào và
ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đốn củi lội đến...
- Kèo là gi, hở
má?
- Ờ, kèo cũng là
nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa.
Mình chặt lấy một khúc dài non thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái
mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít nhiều
bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật
cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kèo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt
những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kèo chặt vào khoảng giữa
tháng Mười một. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kèo bị dao rựa
chặt, và nhánh kèo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô
khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kị,
nó không bao giờ đóng tổ đâu...
- Coi bộ cũng
không khó lắm hở má?
Má nuôi tôi vò đầu
tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà đằng hắng, nói:
- Chẳng dễ đâu,
con ạ! Nhiều người trở thành “dân ăn ong” đã năm mười năm trong nghề, vậy mà
gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gùi không trở về.
- Ủa! Tại sao vậy,
má?
- Định không đúng
chỗ, đoán sai hướng gió chứ sao!
Mắt tôi vẫn không
rời tổ ong lúc nhúc trên cây tràm thấp kia.
[...] Tôi ngồi
nhìn lên kèo ong, thấy nó cũng giống như những tồ ong rừng vẽ trong sách vậy
thôi. Nhưng có điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cành cây
nào đó. Chính tía nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo
như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ
bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng,
quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có
hai cái loa hai đầu, giữa lưng ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang
trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây. Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ
bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi châu người
ta đục ruỗng một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ
cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại
lợp, bện bằng rơm đủ kiểu, hình thù khác nhau... Không có nơi nào, xứ nào có kiểu
tổ ong hình nhánh kèo như vùng U Mình này cả.
Những con ong vẫn
nối cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn
một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của
loài ong.
[...] Chúng tôi ngồi
ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng nghiêng rọi chếch xuống
chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghi sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ
đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bồ đề. Lâu lâu, vài ba trái quả vàng lựng
rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bi.
(Đoàn Giỏi, Đất rừng
phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2015 tr. 148 - 159)
