“Thanh mai trúc mã” (青梅竹馬) là thành ngữ dùng để chỉ đôi bạn thân từ thời thơ ấu (thường nói về hai người khác giới).
Có tài liệu giải thích rằng thanh
mai (青梅)
là mai xanh. Điều này khiến người đọc nghĩ “mai” là cây hoa mai ở VN, tương tự
như mai vàng, mai tứ quý, mai chiếu thủy… (thuộc chi Ochna, rightia…). Chính
xác thì “thanh mai” cần được hiểu là “mơ xanh” thuộc chi Prunus (chi Mận mơ).
Nhìn chung, từ 梅 (méi)
phiên âm Hán Việt là “mai”, song cần hiểu là nói về cây mơ ở Trung Quốc và VN
(phân bố nhiều nơi ở miền Bắc).
Trong Hán ngữ, xét về đại từ tham chiếu thì thanh mai dùng để chỉ bé gái (Thanh mai đại chỉ nữ hài/青梅代指女孩). Trúc mã (竹馬) là ngựa giả, ngựa đồ chơi làm bằng tre, trúc.
Bài Trường Can hành của Lý Bạch
nói về đôi trai gái quen nhau từ thuở còn thơ, năm 14 tuổi cô gái lấy chàng
trai này làm chồng. Năm 16 tuổi, người vợ trẻ nhớ chồng đang ở xa nên từ làng
Trường Can nàng đi đến Trường Phong Sa đón chồng. Bài này có những câu hồi tưởng
thời trẻ con, liên quan với thành ngữ Thanh mai trúc mã: “Lang kỵ trúc mã lai,
Nhiễu sàng lộng thanh mai, Đồng cư Trường Can lí, Lưỡng tiểu vô hiềm sai”
(Chàng cưỡi ngựa tre đến, Đi quanh sàn giếng hái mơ xanh, Cùng sống ở làng Trường
Can, Hai đứa còn ngây thơ). Có người dịch chữ sàng (床) là “cái giường”. Điều
này không chính xác, bởi vì sàng (床) là cái sàn bắc trên giếng để đỡ cái
con quay kéo nước.
