Khái quát về công nghệ thông tin, học liệu số và thiết bị
công nghệ trong dạy học, giáo dục
1. Công nghệ thông tin trong dạy học, giáo dục
a) Tại Việt Nam, thuật ngữ “công nghệ thông tin” được
giải thích là “tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kĩ thuật
hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lí, lưu trữ và trao đổi thông
tin số”, thông qua các tín hiệu số. Các công cụ kĩ thuật hiện đại chủ yếu là
máy tính và viễn thông nên ngày nay, nhiều người thường sử dụng thuật ngữ “CNTT
và truyền thông” (ICT) như một từ đồng nghĩa rộng hơn cho CNTT (IT). Nhìn
chung, khi nói đến CNTT trong dạy học, giáo dục, chúng ta cần nói đến ba phương
diện: (1) Kho dữ liệu, học liệu số, phục vụ cho dạy học, giáo dục; (2) Các
phương tiện, công cụ kĩ thuật hiện đại như máy tính, mạng truyền thông, thiết
bị công nghệ với đặc điểm chung là cần nguồn điện năng để vận hành và có thể sử
dụng trong dạy học, giáo dục; (3) Phương pháp khoa học, công nghệ, cách thức tổ
chức, khai thác, sử dụng, ứng dụng nguồn học liệu số, thiết bị công nghệ trong
dạy học, giáo dục. Trong phạm vi của tài liệu này, chúng ta quan tâm nhiều hơn
đến phương diện (3) - ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các
hoạt động dạy học, giáo dục.
- Lớp giao tiếp: website trường học, mạng xã hội, thư điện tử;
- Lớp dịch vụ công trực tuyến về GDĐT của nhà trường: trao đổi
thông tin về quá trình học tập, rèn luyện, nghỉ phép, đăng kí tham gia các hoạt
động ngoại khóa, các câu lạc bộ trong nhà trường;
- Lớp ứng dụng và cơ sở dữ liệu: ứng dụng CNTT hỗ trợ đổi mới
dạy học và kiểm tra, đánh giá như ứng dụng soạn bài giảng điện tử, phần mềm thí
nghiệm ảo, mô phỏng, ứng dụng học tập trực tuyến, kho tài liệu, giáo án, bài
giảng, học liệu điện tử.
- Lớp hạ tầng và các điều kiện đảm bảo khác: các thiết bị phục
vụ ứng dụng CNTT trong dạy học trên lớp học.
c) Việc ứng dụng CNTT trong dạy học, giáo dục có một số lợi ích,
đặc điểm:
- Tính hiệu quả: tương xứng với chi phí đầu tư ban đầu, việc ứng
dụng CNTT giúp quá trình dạy học, giáo dục trở nên thuận tiện hơn, hướng đến
hiệu quả mong đợi, lâu dài. Chẳng hạn, trong những điều kiện bất khả kháng như
thời tiết cực đoan hay dịch bệnh, không thể tổ chức các hoạt động dạy học, giáo
dục theo cách thông thường, việc ứng dụng CNTT có thể duy trì quá trình dạy
học, giáo dục một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, CNTT tạo điều kiện cá nhân hóa
của giáo GV và HS trong thực hiện nhiệm vụ. GV có thể kịp thời xây dựng, chỉnh
sửa, bổ sung, hoàn thiện các hồ sơ dạy học, giáo dục, giảm phụ thuộc yếu tố
không gian, thời gian. HS có thể chủ động tìm kiếm, thu thập, xử lí dữ liệu để
hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
- Tính đồng bộ: việc khai thác, ứng dụng CNTT trong quản lí, tổ
chức hoạt động dạy học, giáo dục có sự đồng bộ từ cấp Bộ GDĐT đến các địa
phương, cơ sở GDPT thông qua các chỉ đạo thống nhất về: (1) mô hình ứng dụng
CNTT, (2) mức tối thiểu cơ sở hạ tầng và thiết bị CNTT, (3) nguồn, dạng và dữ
liệu, (4) hình thức tổ chức, quản lí và vận hành hệ thống quản lí dữ liệu. Nhờ
đó, việc định dạng, lưu trữ, khai thác dữ liệu về GV, HS và những dữ liệu khác
liên quan quá trình dạy học, giáo dục có tính thống nhất trong cả nước. Nhờ
tính đồng bộ, thống nhất mà việc ứng dụng CNTT trong kiểm tra, đánh giá, tổ
chức các kì thi, xử lí kết quả với quy mô lớn được các bên liên quan phối hợp
thực hiện nhịp nhàng, hiệu quả.
- Tính thông minh: không chỉ hỗ trợ GV, HS tìm kiếm, xử lí thông
tin, việc ứng dụng CNTT còn cho phép tạo ra các sản phẩm hỗ trợ, thay thế các
mô hình động, các thí nghiệm ảo, các chuyến du hành khám phá ảo mà việc thực
hiện trực tiếp có nhiều khó khăn. Các sản phẩm công nghệ mới không ngừng được
cải tiến, cập nhật, dễ khai thác hơn, nhiều chức năng hơn. Từ đó, đặc tính này
đáp ứng nhu cầu hiện tại, định hình xu hướng phát triển về mục tiêu, nội dung,
hình thức, cách thức tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục ở tương lai để đáp
ứng nhu cầu phát triển không ngừng của con người.
2. Học liệu số trong dạy học, giáo dục
a) Liên quan đến việc quản lí, tổ chức đào tạo , bồi dưỡng, tập
huấn qua mạng Internet, thuật ngữ “học liệu số” hay “học liệu điện tử” được
giải thích là tập hợp các phương tiện điện tử phục vụ dạy và học, gồm: giáo
trình điện tử, sách giáo khoa (SGK) điện tử, tài liệu tham khảo điện tử, bài
kiểm tra đánh giá điện tử, bản trình chiếu, bảng dữ liệu, các tệp âm thanh,
hình ảnh, video, bài giảng điện tử, phần mềm dạy học, thí nghiệm mô phỏng và
các học liệu được số hóa khác. Những học liệu này được số hóa theo kiến trúc
định dạng và kịch bản nhất định, được lưu trữ trên các thiết bị công nghệ, điện
tử như CD, USB, máy tính, mạng máy tính nhằm phục vụ cho việc dạy và học .
b) Việc phân loại học liệu số có nhiều cách khác nhau, chẳng
hạn:
- Phân loại theo dạng thức kĩ thuật, học liệu số bao gồm các
phần mềm máy tính (kể cả các phần mềm thí nghiệm mô phỏng), văn bản (text),
bảng dữ liệu, âm thanh, hình ảnh, video và hỗn hợp các dạng thức nói trên.
- Phân loại theo mục đích sử dụng học liệu số trong các bước của
hoạt động học, học liệu số có thể được chia thành: học liệu số nội dung dạy
học, giáo dục, gồm hình ảnh, video, bài trình chiếu, thí nghiệm ảo; học liệu số
nội dung kiểm tra đánh giá, gồm bài tập, câu hỏi trắc nghiệm, câu hỏi tự luận,
phiếu khảo sát… Việc phân loại học liệu số nên nhằm mục đích sử dụng hay vận
dụng thế nào trong dạy học, giáo dục để đạt được mục tiêu, yêu cầu cần đạt.
c) Học liệu số có một số lợi ích, đặc điểm nổi trội hơn học liệu
truyền thống:
- Tính đa dạng: học liệu số tồn tại dưới nhiều dạng thức khác
nhau như phần mềm máy tính, văn bản (text), bảng dữ liệu, âm thanh, hình ảnh,
video, bài trình chiếu....
- Tính động: nhờ khả năng phóng to, thu nhỏ, thay đổi màu sắc,
thay đổi hướng, cách di chuyển hay xuất hiện, nhiều học liệu số tạo hứng thú
trong dạy học, giáo dục, phù hợp với hoạt động nhận thức, khám phá và vận dụng
trong quá trình tổ chức hoạt động học. Việc tìm kiếm thông tin trên các sách,
tài liệu điện tử được thực hiện dễ dàng hơn, nhanh chóng với các siêu liên kết,
các tính năng của phần mềm. Tính động của học liệu số còn thể hiện ở khả năng
lưu trữ, chuyển đổi giữa các dạng thức khác nhau, các hình thức khác nhau tùy
theo ý tưởng dạy học, giáo dục và những điều kiện vận dụng cụ thể. Ngoài ra,
tính động còn cho phép sử dụng học liệu số một cách linh hoạt và hướng đến sự
tương tác một cách chủ động giữa người học và học liệu số cũng như giữa người
học và người dạy.
- Tính cập nhật: nhờ khai thác ưu điểm tức thời và tốc độ của
CNTT, việc phát hành, cập nhật nguồn học liệu số thường thuận tiện hơn, nhanh
chóng hơn, khó bị giới hạn bởi khoảng cách địa lí hay giãn cách xã hội. Nguồn
học liệu số không ngừng được bổ sung, điều chỉnh, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
người dùng và những thay đổi của cuộc sống thực tiễn, nhằm chính xác hóa thông
tin, cập nhật những kết quả của hoạt động nhận thức và khám phá những điều mới
mẻ. Điều này cũng nhắc nhở GV, HS cần quan tâm đến tính cập nhật thường xuyên
và nhanh chóng của học liệu số để xem xét điều chỉnh phù hợp, kịp thời.
3. Thiết bị công nghệ trong dạy học, giáo dục
a) Thuật ngữ thiết bị dạy học, giáo dục thường
được dùng để chỉ những máy móc, dụng cụ, phụ tùng cần thiết cho hoạt động dạy
học, giáo dục . Bên cạnh các thiết bị truyền thống, nhiều thiết bị công nghệ
được khai thác trong dạy học, giáo dục. Chẳng hạn, máy ghi âm, quay phim, chụp
hình kĩ thuật số, máy quét, máy vi tính, máy chiếu là các thiết bị công nghệ
đang được nhiều GV sử dụng. Nhờ có các thiết bị này, chúng ta có thể tạo ra các
tệp âm thanh, hình ảnh, video clip, bài giảng điện tử, chuyển các giáo trình,
SGK, tài liệu tham khảo, bài kiểm tra từ dạng bản giấy sang giáo trình điện tử,
SGK điện tử, tài liệu tham khảo điện tử, bài kiểm tra đánh giá điện tử. Trong
giới hạn của tài liệu này, thiết bị công nghệ có thể được hiểu là những phương
tiện, máy móc, thiết bị có chức năng thu nhận, xử lí, truyền tải thông tin dữ
liệu phục vụ hoạt động dạy học, giáo dục, có thể trong giai đoạn chuẩn bị, soạn
thảo các kế hoạch, hoặc khi tổ chức dạy học, giáo dục, hay khi kiểm tra, đánh
giá, tổng kết.
b) Trên bình diện chung, thiết bị công nghệ có thể được chia
thành hai nhóm:
- Nhóm cơ bản: gồm các thiết bị tối thiểu mà các cơ sở giáo dục
cần có để tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục như máy tính, máy chiếu, hệ
thống âm thanh,…
- Nhóm nâng cao: gồm các thiết bị hiện chưa có trong danh mục
bắt buộc đối với các cơ sở giáo dục như bảng tương tác, camera, máy tính bảng,…
c) Thiết bị công nghệ có một số đặc điểm như sau:
- Tính phụ thuộc nguồn điện năng: thiết bị công nghệ là các
thiết bị kĩ thuật hiện đại, phụ thuộc vào nguồn điện năng. Chẳng hạn, máy ghi
âm, máy quay phim, máy chụp hình micro ngừng hoạt động khi thiết bị hết pin.
Chúng ta cũng không thể sử dụng máy quét, máy vi tính, máy chiếu khi cúp điện
mà không có bộ sạc dự phòng.
- Tính đa phương tiện: những thiết bị công nghệ khai thác các
phần mềm để trình diễn các dữ liệu và thông tin, sử dụng đồng thời các hình
thức chữ viết, âm thanh, hình ảnh qua hệ thống máy vi tính một cách tích hợp có
thể tạo ra khả năng tương tác giữa người sử dụng và hệ thống điều hành thiết
bị, kích thích và tạo hứng thú nhận thức của HS cũng như hỗ trợ HS tích cực
khám phá và thực hành. Tính đa phương tiện còn thể hiện ở chỗ cho phép GV, HS
thực hiện nhiều chức năng trên cùng một thiết bị trong hoạt động dạy học, giáo
dục. Chẳng hạn, GV, HS có thể sử dụng máy tính để lưu trữ thông tin, tìm kiếm
thông tin, xử lí thông tin, trình diễn thông tin, học tập và tương tác với cộng
đồng theo kế hoạch một cách chủ động và tích cực.
- Tính trực quan: thiết bị công nghệ được sử dụng nhằm hỗ trợ
thu, phát thông tin, tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục. Tiếp xúc một cách
trực quan mô phỏng một phần hay toàn phần thực tiễn, HS có thể lĩnh hội được
chân thật, sống động các biểu tượng, định hướng thực hành dựa trên khả năng làm
chủ cấu trúc, thực hiện các thao tác, quy trình cơ bản.
Nguồn: https://taphuan.csdl.edu.vn/
